Cảnh báo về sự bùng phát của bệnh do vi bào tử trùng (Microsporidian) trên Tôm

Enterocytozoon hepatopenaei Vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) lần đầu tiên được mô tả và ghi nhận trên tôm sú ở Thái Lan vào năm 2009. EHP được phát hiện trên những con tôm chậm lớn. EHP thường được tìm thấy trong gan tụy (HP) của tôm và có hình thái giống với một loài vi bào tử trùng khác chưa được đặt tên được báo cáo trước đó trong HP tôm he Nhật Bản P. japonicus tại Úc vào năm 2001.

Những nghiên cứu sau đó cho rằng EHP không phải là một tác nhân gây bệnh này mà nó là một loài đặc hữu của Úc. Sau đó, có nhiều nghiên cứu cho thấy EHP cũng có thể lây nhiễm trên tôm thẻ chân trắng nhập khẩu để nuôi ở Châu Á và nó có thể lây truyền trực tiếp từ tôm bệnh sang tôm khỏe thông qua đường miệng (oral route). EHP khác hoàn toàn với loài vi bào tử trùng khác là tác nhân gây bệnh tôm bông (cotton disease). Vi bào tử trùng gây bệnh tôm bông cần phải có ký chủ trung gian là cá trước khi tấn công và gây bệnh trên tôm trong chu kỳ phát triển (life cycle) của nó. Loài ký sinh trùng này dễ dàng bị loại bỏ trong ao nuôi tôm bằng cách tiêu diệt các loài cá tạp trong ao trước khi thả tôm.  

Enterocytozoon hepatopenaei trên tế bào biểu mô ống lượn của tôm sú nhiễm bệnh. (A) Mẫu nhuộm H&E của mô gan tụy cho thấy có nhiều bào tử của EHP (mũi tên). (B) Mẫu tươi của bào tử EHP. (C và D) Phần mô gan tụy cho thấy tính ưa acid và các thể vùi trong tế bào chất của tế bào biểu mô ống lượn (mũi tên). (E) Bào tử ở giai đoạn sớm (a) và giai đoạn trưởng thành (b). (Source: Somjintana Tourtip et al., 2009).

Tại sao kiểm soát EHP là quan trọng trong nuôi tôm?

Mặc dù EHP không gây chết tôm, nhưng có nhiều thông tin cho rằng nó làm giảm tốc độ tăng trưởng nghiêm trọng trên tôm thẻ chân trắng. Do đó, Mạng lưới Trung tâm Nu��i trồng Thủy sản vùng châu Á – Thái Bình Dương - NACA đã bắt đầu cảnh báo người nuôi tôm và các trại sản xuất giống tôm ở Châu Á về EHP trên tôm thẻ chân trắng và tôm sú bố mẹ và tôm giống (PL) vào năm 2009. Tuy nhiên, những lời cảnh báo này không được chú ý vì mọi sự tập trung đều hướng về hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND). NACA lo ngại rằng sự thiếu quan tâm đến EHP sẽ dẫn đến việc lây lan và bùng phát bệnh do trùng hai tế bào trong hệ thống nuôi, nó có thể được "ngụy trang" bằng sự hiểu lầm là tôm bị bệnh EMS/AHPND vì tôm tăng trưởng chậm, sức khỏe yếu và có thể dẫn đến chết sớm. Điều này, trong thực tế có thể đã diễn ra trong những năm gần đây. Chúng ta đã có thông tin cho thấy dịch bệnh do EHP đang xảy ra rộng rãi ở Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Thái Lan. Gần đây, NACA cũng đã nhận được các kết quả PCR dương tính với EHP từ những mẫu tôm có dấu hiệu tăng trưởng chậm ở Ấn Độ. Như vậy, EHP là một vấn đề đang diễn ra theo chiều hướng xấu và cần được nhanh chóng kiểm soát trước khi dịch bệnh bùng phát rộng rải trên toàn thế giới.       

EHP quan sát dưới kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM). (A) Bào tử giai đoạn sớm được bao phủ bởi một màng plasmodial (mũi tên). (B) Bào tử chưa trưởng thành cho thấy những đĩa neo (AD), các sợi cực (PF) và polaroplast (PO) bao gồm phần màng (lamellar) của nó (LPO). (C) Mặt cắt ngang của một bào tử trưởng thành dưới đĩa neo cho thấy một mặt cắt ngang của sợi cực (PF) được bao quanh bởi các phần lamellar của polaroplast (LPO) và một phần theo chiều dọc của sợi cực ngoài polaroplast. (D) Bào tử trưởng thành cho thấy một phần của phần cuộn của dây cực. (Source: Somjintana Tourtip et al., 2009). 

Kiểm soát sự bùng phát của EHP trên thế giới như thế nào?

Phương pháp PCR và phương pháp LAMP đều có sẵn qui trình để kiểm tra phân tôm bố mẹ và tôm giống (postlarvae) để xác định xem nó có nhiễm EHP hay không (Tangprasittipap et al. 2013. BMC Vet Res. 9:139; Suebsing et al. 2013. J Appl Microbiol 114: 1254-1263). Mầm bệnh này cũng có thể được phát hiện bằng kính hiển vi quang học với độ phóng đại 100X với mẫu nhuộm hoặc mẫu tươi gan tụy; tuy nhiên, bào tử của nó rất nhỏ (kích thước nhỏ hơn 1 micron chiều dài) nên chỉ có thể quan sát được rất ít mặc dù mẫu bị nhiễm với cường độ nặng. Do đó, phương pháp PCR hai bước (nested PCR) sẽ là lựa chọn tối ưu và cho kết quả chính xác nhất.  

NACA cho biết có nhiều số liệu cho thấy, tôm thẻ chân trắng phi bệnh tật (SPF) nhập khẩu vào Thái Lan đều âm tính với EHP, tuy nhiên sau đó nó thường bị lây nhiễm EHP tại các trại sản xuất giống do vấn đề an toàn sinh học ở các trại sản xuất giống rất kém. Một trong những lỗi nghiêm trọng trong vấn đề an toàn sinh học là việc sử dụng thức ăn tươi sống (ví dụ như giun nhiều tơ, các loài hai mảnh vỏ,...) từ các nguồn trong nước hoặc nhập khẩu từ nước ngoài để làm thức ăn cho tôm bố mẹ, bất chấp những cảnh báo liên tục được đưa ra bởi NACA. NACA cho biết họ có những dữ liệu chắc chắn rằng giun nhiều tơ thu trực tiếp từ các nguồn trong nước hoặc nhập khẩu ở Châu Á có kết quả xét nghiệm PCR dương tính với cả vi khuẩn gây bệnh EMS/AHPND và EHP. Tuy nhiên, cũng có khả năng một số tôm thẻ chân trắng bố mẹ SPF nhập khẩu nhiễm EHP, bởi vì EHP không nằm trong danh sách kiểm dịch của OIE (Tổ chức Thú y Thế giới) nên các nhà cung cấp tôm SPF và các cơ quan kiểm dịch thường bỏ qua việc kiểm tra EHP trên tôm SPF. Vấn đề này cần được sớm khắc phục bằng việc bổ sung EHP vào danh mục các bệnh cần được kiểm tra để công nhận tôm SPF bởi các nhà cung cấp tôm SPF và các cơ quan chịu trách nhiệm kiểm dịch. Phân tôm bố mẹ có thể dùng để kiểm tra sự hiện diện của EHP bằng phương pháp PCR hai bước (nested PCR).    

Một cách tiếp cận tốt nhất để phòng tránh sự lây nhiễm EHP là tuyệt đối không sử dụng động vật sống (ví dụ, giun nhiều tơ sống, nghêu, sò,..) để làm thức ăn cho tôm bố mẹ. Hoặc nếu vẫn sử dụng động vật sống làm thức ăn cho tôm thì nên đông lạnh sâu trước khi cho tôm ăn vì nó có thể tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh EMS/AHPND và EHP. Ngoài ra, cũng nên tiến hành tiệt trùng các loại thức ăn tươi sống này bằng cách sấy chúng ở nhiệt độ 70oC trong 10 phút để tiêu diệt các loại virus gây bệnh trên tôm (đông lạnh sâu không thể diệt virus). Một phương pháp khác là sử dụng thiết bị chiếu xạ tia gamma đối với thức ăn tươi sống đông lạnh để tiêu diệt mầm bệnh.

Enterocytozoon hepatopenaei (Microsporidian). Kích cỡ bào tử rất nhỏ, chỉ khoảng trên dưới 1 micron, rất khó nhìn nếu soi tươi dưới kính hiển vi quang học. 

Làm thế nào để kiểm soát EHP trong trại sản xuất giống?

EHP và vi khuẩn gây bệnh EMS/AHPND đều được tìm thấy trên tôm bố mẹ ở Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam. Cả hai loại mầm bệnh này đều được tìm thấy trên giun nhiều tơ sống thường được sử dụng để làm thức ăn cho tôm bố mẹ. Nếu như tôm PL tăng trưởng chậm hơn mong đợi thì có thể nghi ngờ là nó đã bị nhiễm EHP.  

Vì vậy, vấn đề đầu tiên là phải đảm bảo rằng các cơ sở nuôi vỗ thành thục tôm bố mẹ và các trang trại sản xuất giống phải SẠCH! Để đạt được mục tiêu này, tất cả tôm phải được loại bỏ từ các trại sản xuất giống sau đó làm vệ sinh trại (bao gồm tất cả các thiết bị, các bộ lọc nước, bể chứa nước, ống nước, dây sụt khí,...) bằng dung dịch sút 2,5% (NaOH 25 g/L nước ngọt). Tất cả các thiết bị, vật dụng trong trại phải được tiệt trùng bằng dung dịch sút 2,5% trong 3 giờ, sau đó rửa sạch lại. Sau khi tiệt trùng bằng dung dịch toàn bộ trang trại phải được phơi nắng hoặc làm khô trong 7 ngày. Sau đó, toàn bộ nền (sàn) trang trại được rửa lại bằng dung dịch chlorine 200 ppm. 

Vấn đề tiếp theo là tôm bố mẹ. Như đã nói ở trên, một số tôm SPF vẫn có thể mang mầm bệnh EHP, nhưng không có vi khuẩn gây bệnh EMS/AHPND khi kiểm tra bằng PCR. Vì vậy, tôm SPF vẫn phải được kiểm tra EHP trước khi chuyển vào trang trại sản xuất giống để nuôi vỗ và cho sinh sản. Kinh nghiệm ở Thái Lan cho thấy, tôm bố mẹ được nuôi tại các ao nuôi vỗ ở địa phương có nguồn gốc nhập khẩu từ tôm SPF ban đầu không bị nhiễm EHP nhưng sau đó có tỷ lệ cảm nhiễm EHP rất cao. Do đó, phân tôm bố mẹ cần được kiểm tra bằng phương pháp nested PCR trước khi đưa vào trại sản xuất giống để cho sinh sản. Ngoài ra, khi tôm bố mẹ đã sinh sản nhiều lần (giảm năng suất, không sử dụng nữa) cần được tiến hành kiểm tra xác nhận sự hiện diện của EHP bằng phương pháp mô bệnh học trên mô gan tụy. 

Làm thế nào để kiểm soát EHP ở các trang trại nuôi tôm thương phẩm?

Đối với người nuôi tôm, có hai vấn đề chính cần được quan tâm. Vấn đề đầu tiên là để đảm bảo rằng tôm PL được sử dụng cho các ao nuôi không bị nhiễm EHP. Điều này có thể được thực hiện dễ dàng bằng cách xét nghiệm PCR. DNA chiết xuất từ tôm PL để kiểm tra vi khuẩn AHPND bằng PCR, một phần của các chiết xuất DNA này cũng có thể được sử dụng để kiểm tra EHP. Người nuôi tôm không nên sử dụng các lô tôm PL có kết quả dương tính với một trong những tác nhân gây bệnh cho các ao nuôi của mình.

Vấn đề thứ hai đối với nông dân là liên quan đến việc chuẩn bị ao nuôi thích hợp sau các vụ nuôi, đặc biệt là khi một ao nuôi trước đây đã bị ảnh hưởng bởi EHP. Các bào tử của EHP có vỏ dày, không dễ dàng bị làm bất hoạt. Thậm chí chỉ một mình chlorine với hàm lượng cao cũng không có hiệu quả trong việc tiêu diệt bào tử của EHP. Ngoài ra, các vật chủ có khả năng mang mầm bệnh EHP trong môi trường hiện vẫn chưa được xác định rõ. Cả hai có thể vẫn còn tồn tại trong ao sau khi thu hoạch và điều quan trọng là chúng phải được tiêu diệt trước khi tiến hành chu kỳ canh tác tiếp theo.

Để tiêu diệt bào tử của EHP, có thể sử dụng vôi nóng CaO với liều lượng 6 tấn/ha. Đáy ao nuôi cần được cày xới khoảng 10-12 cm, sau đó bón vôi CaO khắp đáy ao. Sau đó, ao nuôi cần được phơi khô khoảng 1 tuần trước khi lấy nước vào ao nuôi. Sau khi dùng vôi CaO, độ pH của đất sẽ tăng lên rất cao, có khi > 12, sau một vài ngày pH sẽ trở lại bình thường khi nó hấp thụ CO2 và trở thành dạng CaCO3.  

Một cảnh báo đặc biệt đối với Mexico

Có tin đồn rằng sự bùng phát của EMS/AHPND ở Mexico có nguồn gốc từ tôm thẻ chân trắng bố mẹ bị nhiễm bệnh nhập lậu vào Mexico từ châu Á cho sản xuất giống cung cấp cho các ao nuôi tại địa phương. Nếu những tin đồn này là sự thật thì rất có thể tôm ở Mexico sẽ bị nhiễm EHP, vì tỷ lệ tôm nhiễm EHP trên tôm bố mẹ ở khu vực Châu Á rất cao. Vì vậy, các cơ quan kiểm dịch của Mexico cần khẩn cấp kiểm tra mẫu DNA từ tôm bố mẹ ở các trại sản xuất giống để theo dõi vi khuẩn gây bệnh EMS/AHPND và EHP. Nếu như kết quả dương tính với AHPND và EHP, nó sẽ cũng cố cho giả thuyết rằng mầm bệnh này được nhập khẩu từ Châu Á. Đây cũng là một biện pháp phòng ngừa kịp thời hoặc tiếp tục giám sát chặt chẽ các hoạt động nhập khẩu tôm bố mẹ để tránh việc mang một mầm bệnh ký sinh trùng lạ đến Mexico và phần còn lại của châu Mỹ.     

Source: Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacific. Urgent Appeal to Control Spread of the Shrimp Microsporidian Parasite Enterocytozoon Hepatopenaei (EHP). Kallaya Sritunyalucksana (Center of Excellence for Shrimp Molecular Biology and Biotechnology, Faculty of Science, Mahidol University, Rama VI Road, Bangkok 10400, Thailand), Piyachat Sanguanrut, Paul Vinu Salachan, Siripong Thitamadee and Timothy W. Flegel).  November 24, 2014.